Home » Tin tức - Sự kiện
Chuyên đề 2018 về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Thursday, March 1, 2018
ĐẠO ĐỨC, PHONG
CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG PHONG CÁCH, TÁC PHONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU,
CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG
VIÊN
(Tài liệu sinh
hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị năm 2018)
--------
Phong cách và
tác phong là hai khái niệm thường đi đôi với nhau. Phong cách hàm nghĩa rộng
hơn, thể hiện những cung cách, cách thức hành xử của một người hay một nhóm
người, được thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên cái
riêng của họ, phân biệt họ với những người khác. Phong cách hình thành trên cơ
sở những yếu tố về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tài năng, sở trường, khí chất…
Tác phong hàm nghĩa cụ thể hơn so với phong cách. Có thể hiểu tác phong là sự
thể hiện ra bên ngoài của phong cách, tạo thành lề lối làm việc, thói quen ứng
xử, nề nếp sinh hoạt... Sau đây, trong chuyên đề chúng ta sẽ sử dụng nhất quán
khái niệm “phong cách Hồ Chí Minh” với cả hai hàm nghĩa của “phong cách” và
“tác phong”; sử dụng khái niệm “phong cách làm việc” và “phong cách lãnh đạo”
để nói về phong cách, tác phong công tác trong công việc và trong lãnh đạo,
điều hành đất nước.
Phong cách làm
việc và phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng của
Người, gắn liền với tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục đích sống của Người; vừa
dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực;
thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh
thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi
người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một nội dung quan trọng hợp thành chỉnh thể phong cách của Người, được
hình thành từ rất sớm. Khi còn nhỏ, Hồ Chí Minh sớm tiếp nhận một nền giáo dục
Nho học, từ đó đã định hình một phong cách nền nếp, ngăn nắp, cần mẫn. Những
năm tháng bôn ba ở nước ngoài, lăn lộn với cuộc sống của người lao động, hòa
mình trong phong trào công nhân đã hình thành ở Người một phong cách làm việc
khoa học, quý trọng thời gian và sắp xếp công việc hàng ngày một cách cụ thể,
hợp lý. Những trải nghiệm cùng với những tác động và ảnh hưởng của các yếu tố
văn hóa phương Đông và phương Tây mà người đã tiếp nhận trong những năm tháng
hoạt động cách mạng đã hình thành trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh một
phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo đặc trưng của Người, được thể hiện đậm
nét và sâu sắc trong cách giải quyết công việc hàng ngày trên cương vị là người
đứng đầu Đảng và Nhà nước sau này.
Có thể nói một
cách rất khái quát về phong cách làm việc Hồ Chí Minh, đó là lề lối, cung cách,
cách thức làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương, thể hiện trong
hoạt động lãnh đạo của Người với những đặc điểm quan trọng như: phong cách dân
chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng,
khoa học, năng động, sáng tạo.
Phong cách làm
việc Hồ Chí Minh là những bài học quý báu đối với cán bộ, đảng viên và nhân
dân, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương số 04-NQ/TW về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW,
ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Phần thứ nhất
XÂY DỰNG PHONG
CÁCH LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Người coi “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”[1],
“cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”2 và đi đến kết luận: “Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”4. Vì thế,
Người rất quan tâm đến xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng,
trong đó có xây dựng, rèn luyện phong cách công tác. Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng phong cách làm việc của người
cán bộ, đảng viên, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
1. Phong cách
dân chủ, quần chúng
Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, phong cách dân chủ hay
“cách làm việc dân chủ” là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải
có. Người chỉ rõ: Đảng ta thực hiện nguyên tắc “tập trung dân chủ” và “chế độ
ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”5.
Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự
trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên,
quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp
dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng kiến của quần
chúng để lãnh đạo quần chúng”6. Những
sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng
thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi
nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân
dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.
Người có phong
cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách”,đó cũng là cách “để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người”.
Cán bộ không bao giờ được “độc tôn chân lý”, phải thành thực lắng nghe ý kiến
phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị. Làm như vậy
thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng, sẵn
sàng đóng góp sáng kiến.
Phong cách dân
chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ
phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức.
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung
dân chủ”. Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn”1.
Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “Miệng thì nói dân chủ, nhưng
làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”2 là họ tự tước đi của mình vũ
khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có ““đầy túi quần thông
cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”3.
Phong cách dân
chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm
tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tin yêu
và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị
chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa
chữa khuyết điểm của mình.
Gắn bó mật thiết
với phong cách dân chủ là phong cách quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán
bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn đề có tính nguyên
tắc về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó
trăm lần dân liệu cũng xong”. Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải
gần gũi quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Người cán
bộ phải thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời
sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân
chúng, không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời,
nhất định thất bại”1.
Phong cách quần
chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng”, vì theo Hồ Chí Minh, “Trong dân
chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”2. Người
cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí
của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận
quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Phong cách quần
chúng Hồ Chí Minh là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ,
năng lực thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt thực
tiễn theo ý mình. Theo Người, “nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho
quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo
chân. Không ai đóng chân theo giầy”3. Người khẳng định: “cách làm
việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của
chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”4, “dựa vào lực lượng quần chúng”5.
Phong cách quần
chúng của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ trong các thói quen sinh hoạt hàng
ngày. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình
hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ
lệch lạc trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh
mới giữ được oai tín, giữ được thể diện”6. Khi người cán bộ thấm
nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy,
ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
2. Phong cách
khoa học
Phong cách làm
việc khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra,
nghiên cứu, phân tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra quyết định, tranh
thủ ý kiến của tập thể lãnh đạo và quần chúng. Người chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề,
ta phải đặt câu hỏi: vì sao có vấn đề này? xử trí như thế này, kết quả sẽ ra
sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp
sao làm vậy”. Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận rồi mới quyết định
và thực hiện đến nơi, đến chốn. Đặc biệt, đối với những vấn đề mới, phức tạp có
ảnh hưởng lớn tới tổ chức đảng, đơn vị, bộ đội và nhân dân, cần phải làm thử,
làm điểm trước khi quyết định. Tuyệt đối không ra quyết định khi chưa có thông
tin đầy đủ, chưa có phương án tính toán hiệu quả. Tránh chủ quan duy ý chí, che
giấu khuyết điểm để chạy theo thành tích.
Phong cách làm
việc khoa học của Hồ Chí Minh là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng,
thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “Việc chính, việc
gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm
việc ấy”1. Hết sức tránh chuyện vạch ra
“Chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực”2 và căn bệnh
“đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
Phong cách làm
việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có
năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất.
Người từng nói: “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ
vứt đi, là người ngu dại”3. Người
cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm
thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng
công việc;không ôm đồm, làm quá nhiều việc, những nhiều việc không dứt điểm,
không hiệu quả. Người giải thích: “Đích
nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích
nào”7.
Phong cách làm
việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu
khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và
phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy rộng.
Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”8.
Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to
lớn, lâu dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa
học và có cách làm việc khoa học.
Theo Hồ Chí
Minh, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá
đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý;lại phải biết cách kiểm
tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc
thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái gì…Người
nói: “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta
hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những
tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ
không theo kịp tình thế”1. Kiểm
tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ, vì “Có kiểm tra… mới biết rõ
năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”2. Cán bộ lãnh đạo làm việc khoa học,
chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.
Phong cách khoa
học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần
sau và cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “công việc gì bất kỳ thành công hoặc
thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi
kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa
phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”1.
3. Phong cách
nêu gương
Theo Hồ Chí
Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến
lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải
nêu gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương
trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”2.
Về vai trò của
nêu gương, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải
ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý
mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước”3.Tự mình
phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính, mà muốn người
khác chính là vô lý.
Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cách
mạng chủ yếu, là nhân cách của con người. Người viết:
“Trời có bốn
mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn
phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn
đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa,
thì không thành trời,
Thiếu một
phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức
thì không thành người”4.
Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong phong cách
làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn tất
cả các cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”5.
Theo Hồ Chí
Minh, kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi
ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ muốn tự tư tự
lợi. Phải khắc phục chủ nghĩa cá nhân có trong mỗi người cán bộ đảng viên thì
mới có thể có phong cách làm việc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là
cơ sở để hình thành hành vi đạo đức đúng đắn, một tâm hồn hướng thượng: giàu
sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất
phục1.
Cần nêu gương
trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự
cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để
phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như
rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn
kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù
trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt việc công
lên trên, lên trước việc tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, muốn
nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm không chỉ là một
chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo đức công vụ tối
thiểu. Với cán bộ, đảng viên, sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo
đức và nêu gương đạo đức cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời
sống riêng, giữa đạo đức người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao,
uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và
làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và
lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi
theo.
Việc nói đi đôi
với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ,
do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán
những cán bộ “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày
khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”2. Nhân dân không bao giờ tin cậy những
cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một
nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải
thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp
dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những
điều mình đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh
“hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.
Trong gia đình,
cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em.
Trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan,
tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu
gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải
có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, làm
tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó mà noi theo, qua đó mà làm tăng thêm những
điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Trong các nội
dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ
nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý
sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân
mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên
phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm
trước dân cả về lời nói và việc làm.
Để giáo dục bằng
nêu gương đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc
tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”1. Người khẳng định: “Người tốt, việc tốt
nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng
có”2. Tháng 6-1968, Người chỉ đạo xuất
bản sách “Người tốt, việc tốt” để mọi người học tập, làm theo, lan tỏa cái tốt,
cái đẹp trong xã hội.
Phần thứ hai
XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA
NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
Trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo
quần chúng, dẫn dắt quần chúng nhân dân đi theo Đảng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Khi Đảng cầm quyền, đảng viên được tín nhiệm và sắp xếp tham
gia công tác lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị. Trong các tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước, đa số người đứng đầu là đảng
viên. Vì vậy, phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, trong kết quả triển khai
thực hiện nhiệm vụ.
Phong cách lãnh
đạo là tổng hợp những phương pháp, biện pháp, cách thức riêng, tiêu biểu mà
người lãnh đạo sử dụng hằng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình. Phong cách
được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức, điều kiện chính trị
và điều kiện sống của người lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo là khái niệm rộng hơn
khái niệm phương pháp, cách thức, biện pháp. Phong cách lãnh đạo là cái chung,
biểu hiện thông qua các phương pháp, cách thức và biện pháp, đồng thời phản ánh
các phẩm chất bên trong của con người, phản ánh tư tưởng, đạo đức, năng lực,
tính cách, sở trường của người lãnh đạo. Có một số yêu cầu trong phong cách
lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhắc tới, đó là: phong cách dân chủ, nhưng
quyết đoán, lãnh đạo sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng,
khoa học, năng động, sáng tạo.
1.
Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán
Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần
chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ
thống.Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến
của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó.Đồng thời
nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không.Rồi
lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những
khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực
hành.
Cứ như thế mãi
thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước.
Đó là cách lãnh
đạo cực kỳ tốt”1.
Trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách tổ chức, bộ máy nhà nước và nhiều công việc
khác, cần phải thực hành cách liên kết sự lãnh đạo với quần chúng và liên kết
chính sách chung với sự chỉ đạo riêng, tức là vận dụng quan điểm, đường lối
chung phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.Theo Người, như vậy mới thật là biết
lãnh đạo, quản lý.
Phong cách lãnh
đạo dân chủ thì phải dựa vào quần chúng; là cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng
đầu không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết
đời sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng thực của nhân dân ra sao? Họ
đang nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời nói, mỗi việc làm của người cán
bộ phải phù hợp với quần chúng, phản ánh đúng được khát vọng của quần chúng.
Cán bộ phải biết được những băn khoăn trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và
tháo gỡ cùng dân.
Người phê bình cách lãnh đạo của một
số cán bộ không dân chủ, dẫn đến tình trạng người có ý kiến không dám nói, người
muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên cấp dưới cách biệt nhau, quần
chúng với Đảng xa rời nhau, không còn sáng kiến, không còn hăng hái trong khi
làm việc. Người chỉ rõ: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của
mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình
mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín
của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng.
Nếu cán bộ không nói năng, không đề
ý kiến, không phê bình, thậm chí tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu.
Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất
hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái
máy, trong lòng uất ức, không dám nói, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”.
Người đòi hỏi
phải có phong cách làm việc thực sự dân chủ chứ không phải giả tạo, hình thức
để che lấp ý đồ xấu của cá nhân. Bởi vì mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm
chí phá vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm muộn sẽ làm xói mòn, thậm
chí triệt tiêu dân chủ.
Cán bộ lãnh đạo,
nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách trong một tập thể, vừa
phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời, phải quyết
đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu
trách nhiệm. Đây cũng chính là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách”.
Theo Hồ Chí
Minh, một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một
vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã
hội. Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của
tập thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập
thể, một đơn vị hay địa phương mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý
thì không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
Cá nhân phụ
trách là nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, người quản lý. Có ý thức tập
thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến
tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám
chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp
thời, đáp ứng yêu cầu và công việc cũng không thể tiến triển được. Chủ tịch Hồ
Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng: “Những việc bình thường, một
người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi.
Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”1.
Theo Hồ Chí
Minh, trách nhiệm của người đứng đầu phải được đề cao, đôi khi mang tính quyết
định đến hiệu quả công việc. Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý đúng đắn là phải kết hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể
với tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, kịp thời đưa
ra những quyết định đúng. Trong những thời điểm quyết định, người lãnh đạo,
quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết… điều đó liên quan trực tiếp đến việc
tận dụng được thời cơ. Người từngdạy: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí.Gặp thời một
tốt cũng thành công”2.
Kết hợp tập thể
lãnh đạo với cá nhân phụ trách, thực hiện trách nhiệm của người lãnh đạo, người
đứng đầu để khắc phục những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc ngược lại, dựa
dẫm, ỷ lại vào tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá
nhân… làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ
lãnh đạo.
2.
Phong cách lãnh đạo sâu sát
Trong thực tiễn,
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo sâu sát. Theo tài liệu
thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ tính trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc (1955-1965), không quản tuổi cao, công việc bề bộn, Người đã
thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác
xã, đơn vị bộ đội…, từ miền núi đến hải đảo, để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào,
xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm, có hơn 60 lượt Người đi
xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần Người gặp gỡ quần chúng. Ngoài ra, hằng
ngày qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần
tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại,
chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.
Lãnh đạo sâu sát
sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra,
giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc thực thi quyền lực, kiểm tra,
giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần
phòng chống tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân
dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô,
đục khoét, biến của công thành của riêng…
Theo Hồ Chí
Minh, sau khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt việc thực hiện để
nghị quyết đi vào cuộc sống. Điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, giám sát.
Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Theo Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng
bít vì sự kiểm tra, giám sát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa
chặt chẽ.
Sau kiểm tra,
giám sát, thì cái sai cần khắc phục, sửa chữa ngay và cái đúng, cái tốt phải
được động viên khen thưởng, kịp thời, vì khen thưởng đúng người, đúng việc,
đúng lúc sẽ động viên, giáo dục, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc.
Người yêu cầu nhanh chóng biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt, động
viên khuyến khích bằng vật chất hoặc tinh thần, nhằm phát triển cái tốt để
chống lại cái xấu, vì mục tiêu xây dựng con người mới, làm cho xã hội ngày một tiến
bộ. Mỗi khi đọc trên báo chí, thấy tấm gương “người tốt, việc tốt” nào, nhất là
những người đi đầu khởi xướng phong trào, Người liền cử cán bộ đi xác minh và
tặng “Huy hiệu Bác Hồ” cho người có thành tích xứng đáng. Cả nước có khoảng
5.000 người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng “Huy hiệu Bác Hồ” qua
phong trào “Người tốt, việc tốt”. Những ai được nhận “Huy hiệu Bác Hồ” đều tự
hào kể lại những mẩu chuyện cảm động khi nhận phần thưởng cao quý này. Quan
trọng hơn nữa, những phần thưởng đó, sau này trở thành bài học nêu gương cho
các thế hệ con cháu họ.
Hồ Chí Minh từng
yêu cầu: “Tôi ra lệnh cho Bộ Tổng tư lệnh mau chóng khen thưởng những đơn vị và
những chiến sĩ đã lập nhiều chiến công oanh liệt”1. Trong “những việc cần phải làm ngay”
gửi cán bộ, chiến sĩ tỉnh Hòa Bình, Lào Cai, Người nhắc nhở: “Xét kỹ và báo cáo
những đơn vị và cá nhân có công trạng đặc biệt để Chính phủ khen thưởng”2,
“vì khen thưởng khuyến khích rất nhiều, vì khen thưởng là tổng kết và phổ biến
kinh nghiệm ra cho mọi ngành hoạt động”3,
“vì khen thưởng cũng là một cách giáo dục và cổ động. Bộ đội, đồng bào có thành
tích mà Trung ương, Chính phủ khen thưởng thì mới hăng hái hơn và những người
chưa có thành tích sẽ thi đua tích cực. Từ trước đến nay địa phương rất ít báo
cáo, bây giờ các cô, các chú phải tích cực làm”4.
3. Khéo dùng người, trọng dụng người tài
Là người lãnh đạo giỏi thì phải khéo dùng người và trọng dụng nhân tài. Xuất phát từ mục
tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy
tụ những trí thức được đào tạo cơ bản từ các nước phương Tây, quan lại của
triều đình phong kiến cũ.
Người xác định,
việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người,
đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt
các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không
chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện
sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng.Người cho rằng, vì “cách lãnh đạo của
ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm
xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần
phải sửa chữa cách lãnh đạo”5.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không
sẽ làm “thui chột” nhân tài. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng
những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người
có ích cho công việc chung của chúng ta”6.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng
người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực
về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì
thiếu cán bộ”7. Bởi vậy, ngay sau khi
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, trong lúc còn bộn bề khó khăn,
thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tìm người tài để xây
dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm nhân tài và trọng
dụng nhân tài. Ngày 14/11/1945, trên báo Cứu
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài
nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối,
khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”1. Người chủ trương phải “tìm người tài
đức”.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một
khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và
kiến thiết.
4.
Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo
Một yêu cầu quan
trọng trong phong cách của người đứng đầu, người lãnh đạo là phải có sự thống
nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động, sáng tạo, sự nhạy
cảm với cái mới. “Trung với Đảng”, “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất
chính trị cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ
lãnh đạo là phải: “Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân
lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc”2.
Nhiệt tình cách
mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ đứng đầu, người lãnh
đạo. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo mới say mê, tận tuỵ
với công việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt
hiệu quả cao. Tính cách mạng, lòng yêu nước, thương dân là động lực lớn thôi
thúc người lãnh đạo, quản lý chuyên tâm, lo toan, tận tuỵ, say mê với công
việc. Đồng thời, người lãnh đạo phải có sự tìm tòi sáng tạo, đề xuất được những
ý kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, phải là những người vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, có đạo đức cách mạng, có tinh thần anh dũng, gương mẫu, chịu đựng
gian khổ, hy sinh và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh cho
rằng, tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học. Nhiệt tình cách
mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa
học và trên cơ sở khoa học. Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý
chí nếu thiếu tri thức khoa học. Thực tiễn cho thấy, có nhiệt tình mà thiếu tri
thức khoa học sẽ dẫn tới sai lầm, chệch hướng, làm hỏng đường lối, chính sách,
hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại vô ý thức. Những chương
trình, dự án, kế hoạch với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng do thiếu tri thức dẫn
đến thất bại, gây ra tổn thất nặng nề.
Để có tri thức
khoa học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu khó học tập, nghiên
cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ cũng như nắm được
tình hình trong và ngoài nước. Chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực
tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm dễ mắc phải căn bệnh
kiêu ngạo; khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn đến bi quan, dao
động, lập trường cách mạng không vững… Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ
đảng viên nói chung, nhất là với cán bộ lãnh đạo: “Học hỏi là một việc phải
tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không
ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới,
nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để
tiến bộ kịp nhân dân”1.
Học tập, nghiên
cứu, “học và hành” theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đảm bảo sự thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên cần phải có
lý luận lãnh đạo cần nắm chắc lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi”2, “làm mà không có lý luận
thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”3.
Khẳng định vai
trò của lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với
thực tiễn trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông”5, nên lý luận mà xa rời thực
tiễn thì sớm muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở, nên người cán bộ lãnh đạo
phải nắm chắc lý luận, đồng thời qua kinh nghiệm làm việc, phải hiểu rõ sự vận
động của các quan điểm lý luận trong thực tiễn, qua đó dự báo được những biến
đổi của tình hình, của nhiệm vụ cách mạng, từ đó mới có thể thực hiện tốt vai
trò lãnh đạo của mình.
Một trong những
yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là phải nắm
chắc lý luận, nhưng không được “lý luận suông”, mà phải có năng lực vận dụng lý
luận vào thực tiễn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học
tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình;
là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách
sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta”1.
Người chủ trương “phải gắn lý luận với công tác thực tế”. Mọi chủ trương, đường
lối của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ thể,giải thích cho quần
chúng hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách đó như thế “lý luận mới
không tách rời thực tế”.
Trong mọi công
tác, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo có thể sử dụng nhiều hình thức,
biện pháp khác nhau để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, cần
có sự vững vàng, không thay đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc, đó là
những vấn đề có tính chiến lược, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước là “bất biến, phải giữ vững như sắt đá”.
Cùng với kiên
định về nguyên tắc, những vấn đề chiến lược, thì sách lược cách mạng, các hình
thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải mềm dẻo, linh hoạt, phù
hợp với thực tế để có thể đạt kết quả cao nhất. Điều đó thuộc về bản lĩnh của
người lãnh đạo, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”, thể hiện sự linh hoạt
trong hoạt động lãnh đạo của mình.
Theo Hồ Chí
Minh, mục tiêu đặt ra phải được cụ thể trong từng giai đoạn. Tính bất biến, mục
tiêu trong tất cả các giai đoạn của cách mạng là độc lập, thống nhất cho Tổ
quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong bản Di chúc, Người nói lên mong muốn cuối cùng, cũng là mục tiêu chung
của cuộc cách mạng là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh”2. Tuy
nhiên, con đường đi đến mục tiêu đó là con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó
khăn, gian khổ. Người đứng đầu, người lãnh đạo cần sáng suốt, tỉnh táo, nhạy
bén để xác định sách lược, hình thức, biện pháp thực hiện trong những hoàn
cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, trong mỗi bước đi, mỗi bước tiến lên của cách
mạng.
Những nội dung
xây dựng phong cách lãnh đạo nêu trên không nằm ngoài những quy định chung
trong phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên, đồng thời, có yêu cầu cao hơn,
thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trên cương vị
lãnh đạo.
Phần thứ ba
ĐẨY MẠNH HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH LÀM VIỆC, PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Năm
1982, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, Đảng ta đă
đặc biệt phê phán tệ quan liêu biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là
quan liêu trong việc đề ra chính sách, chế độ, quan liêu trong tổ chức bộ máy
và trong phong cách làm việc của cán bộ, phê phán phong cách quản lư kinh tế
theo lối quan liêu bao cấp, tệ quan liêu hành chính, thái độ cửa quyền, yêu cầu
phải có trăm ngh́n biện pháp để chống quan liêu và bảo thủ. Đồng thời, nhấn
mạnh yêu cầu cán bộ đảng viên phải trau dồi cho ḿnh quan điểm của Đảng đối với
quần chúng một cách sâu sắc, phải sát cơ sở, sát quần chúng để chỉ đạo, nghiên
cứu chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho sáng kiến của quần chúng nẩy nở,
những nhân tố tích cực sớm được nâng lên. Đồng thời, yêu cầu phải đổi mới
phương pháp làm việc, xây dựng phong cách làm việc lêninnit của Đảng. Văn kiện
cũng chỉ ra rằng, phương pháp và chế độ làm việc đúng là một yếu tố đặc biệt,
trọng yếu để đảm bảo tính chính xác của việc ra quyết định và biến nó thành
hiện thực, đặc biệt nhấn mạnh đổi mới phương pháp chuẩn bị và ra các quyết
định, tổ chức thực hiện các quyết định; không v́ nể nang, e dè mà dung hoà ư
kiến, ra quyết định nửa vời, thực hiện nghị quyết không thống nhất. Như vậy,
trong điều kiện việc cụ thể hoá đường lối c̣n nhiều bất cập, càng cần đổi mới
phong cách làm việc của cán bộ lănh đạo, quản lư, đi sâu vào thực tiễn, nh́n
thẳng vào khó khăn, phát hiện những kinh nghiệm và cách làm mới, trên cơ sở đó
đổi mới tư duy, đề ra chủ trương, chính sách phù hợp.
Từ Đại
hội V tới nay, Đảng ta nhiều lần khẳng định nhiệm vụ xây dựng, đổi mới phong
cách làm việc của đội ngũ cán bộ lănh đạo quản lư ở nước ta hiện nay theo hướng
thực sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, làm
việc có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục yêu cầu trong
công tác xây dựng Đảng, đối với cán bộ, đảng viên phải xây dựng phong cách làm
việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn,
nói đi đôi với làm.
Triến khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội XII, Chỉ thị 05-CT/TW
của Bộ Chính trị khóa XII “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ”, chúng ta cần chú
trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong cách làm việc dân
chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương cho cán bộ, đảng viên và phong cách dân
chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng,
khoa học, năng động, sáng tạo cho người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Đảng và Nhà nước.
Sau đây là một số giải pháp nhằm thực hiện tốt việc
học tập và làm theo phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh:
1. Tăng cường giáo
dục, rèn luyện xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo trong cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành
Đưa nội
dung giáo dục về xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo của Hồ Chí
Minh vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống học viện, trường
chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện dành cho cán bộ, đảng viên
và cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, các ngành, trong đó, chú ý trang bị
hệ thống tri thức tổng hợp, phương pháp tư duy khoa học và năng lực tổ chức
thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tăng
cường việc giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tri thức
khoa học và kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thông qua việc giáo dục, học tập nâng cao ý chí,
nghị lực để giải quyết những vấn đề, những khó khăn, thử thách trong thực tế
công tác; có khả năng đề kháng với những cái xấu, tiêu cực, tránh được sự cám
dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi,...
Thực hiện nghiêm Quy định số 101-QĐ/TW, ngày
07/6/2012 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ
Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán
bộ, đảng viên.
2. Giữ vững các nguyên tắc“tập trung dân chủ”
và “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”
Giữ
vững nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong làm việc và tuân thủ nghiêm nguyên
tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trong lãnh đạo, quản lý. Tăng cường
phát huy dân chủ để khơi dậy tính sáng tạo, tập trung trí tuệ tập thể trong
việc xây dựng, thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đồng
thời, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng quy định về trách
nhiệm, quyền hạn của cấp ủy, người đứng đầu các cấp trong thực thi công vụ,
trong đó, nêu rõ những yêu cầu về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.
3. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng
viên,
Đẩy
nhanh việc xây dựng các quy định, quy chế, nội quy trong thực thi công vụ và
thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác quản lý cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,
phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.
Thường
xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đối
với cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu các cấp, các ngành, cần xây dựng quy định
kiểm tra, giám sát thường xuyên của cấp ủy cấp trên, quy định kiểm tra, giám
sát của tổ chức đảng và của các đoàn thể, nhân dân, để kịp thời phát hiện, phê
bình, uốn nắn sai phạm, khuyết điểm.
Thực hiện nghiêm Quy định số 55-QĐ/TW, ngày
10/01/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác kiểm tra của tổ
chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.
4. Xây dựng các quy định về đạo đức công vụ,
phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo
Sớm xây
dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo,
kèm theo các yêu cầu bắt buộc, cùng các chế tài cụ thể để xử lý sai phạm. Các tiêu chí về
đạo đức công vụ phải cụ thể, rõ ràng và khả thi, tức là có thể thực hiện theo,
có thể kiểm tra, đánh giá, có thể theo dõi, giám sát. Ví dụ, từ những quy định
nhỏ về tôn trọng giờ giấc làm việc, hội họp; quy định về xưng hô với nhân dân,
tổ chức, doanh nghiệp - đối tượng được phục vụ; quy định về trang phục công
sở... Trong các tiêu chí cần đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với nhân dân,
trên cả 2 phương diện: nhân dân là đối tượng được phục vụ và nhân dân là chủ
thể giám sát, kiểm tra, theo dõi thực hành công vụ. Phải xác định rõ, những nội
dung nào cần phải công khai, minh bạch, đảm bảo yêu cầu phát huy dân chủ trong
thực hành công vụ. Nhất thiết phải có những quy định về thực hành tiết kiệm,
chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu về cả tiền bạc, vật chất, thời
gian.
Tinh thần, thái độ, sự tận tụy với công việc cần
được lượng hóa thành các quy định cụ thể, ví dụ: không giới hạn thời gian tiếp
nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp trước khi hết giờ làm việc... Đi kèm theo các
quy định cụ thể, cần có chế tài đối với các vi phạm quy định và xác định cơ
quan có chức năng xử lý vi phạm. Đồng thời, phải có những quy định để ràng buộc
giữa lời nói và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm nói đi đôi
với làm, nói thì phải làm và làm cho tốt. Nếu nói không đi đôi với làm, nói
nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo thì người cán bộ, công chức, viên chức
phải bị xử lý kỷ luật.
5. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát
Các tổ chức cơ
sở đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của tổ chức đảng đối với việc xây dựng, thực hiện phong cách làm
việc của cán bộ, đảng viên, phong cách lãnh đạo của người đứng đầu các cấp.
Hồ Chí Minh đánh
giá rất cao công tác kiểm tra, giám sát. Người đã thường xuyên nhắc nhở: Các
cấp, các ngành nếu tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát cũng như “Ngọn đèn pha”,
bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm chúng ta đều biết rõ. Có
thể nói chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự
kiểm tra, giám sát. Nếu tổ chức kiểm tra, giám sát chu đáo thì công việc của
chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.
Kiểm tra, giám
sát phải kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, giám sát.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra: “Kiểm soát có hai cách: một là từ
trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm soát những kết quả công việc của cán bộ
mình. Một cách nữa là từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của người lãnh đạo và bày tỏ các cách sửa chữa sự sai lầm đó”1. Vai trò kiểm tra, giám sát của nhân
dân thực hiện thông qua quy chế dân chủ ở cơ sở với cơ chế: dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra. Nhân dân thông qua các tổ chức của mình thực hiện kiểm
tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phải
căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình để làm tốt chức năng giám sát, phản biện
xã hội, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Thực hiện nghiêm Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày
03/10/2017 của Bộ Chính trị về ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức
đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ.
Sự
tham gia tích cực, có hiệu quả của quần chúng nhân dân trong xây dựng Đảng,
trong quá trình kiểm tra, thanh tra sẽ thắt chặt hơn mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, chính quyền với nhân dân. Trong nhiều trường hợp, do nhiều nguyên nhân,
những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên, không bị lãnh đạo, hoặc cơ
quan kiểm tra phát hiện, hoặc không phát hiện được kịp thời, nhưng không thể
che giấu được trăm ngàn "tai mắt" của nhân dân. Thực tế những năm
qua, quần chúng nhân dân đã phát hiện nhiều trường hợp đảng viên vi phạm ở
nhiều lĩnh vực như: phẩm chất đạo đức, lối sống, tham nhũng, vi phạm Luật đất
đai, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm...
[1],
2, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.309, 68, 313.
5.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.378.
6.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8,
tr.149.
1.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15,
tr.325.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.176.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.637.
1, 2, 3, 4, 7, 8.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.326, 336, 288,
2, 241.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.149.
1,
2, 4, 5, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.332, 463, 463,
297, 636.
6.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.28.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.283.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.171.
3, 4.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.16, 117.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.117.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611.
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.327.
1, 2.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15,
tr.672, 663.
1. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.330-331.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.620.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.326.
1, 2. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.455,
492.
3, 4. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.347,
449.
5, 6.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr.281, 313.
7. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.43.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.114.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.377.
2. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.273.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.357.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.153.
1 Hồ Chí
Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr.288.

Chuyên đề 2018 về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Bạn đang xem Chuyên đề 2018 về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tại Trung tâm Y tế Hàm Tân Đừng quên nhấn LIKE và Chia Sẻ nếu bài viết có ích !

Comments[ 0 ]
Post a Comment